HIT: Hoàng tử & Lọ Lem kể một câu chuyện như mọi câu chuyện ta thường thấy trong phim về một cặp đôi ban đầu tình cờ gặp nhau, đối đầu rồi đổi thành iu. Họ bị kẻ ác hãm hại rồi tham gia 1 cuộc thi và lên đỉnh.
Nội dung quen vậy chứ coi phim bạn sẽ gặp rứt nhiều bất ngờ vì các tình huống vô cùng trớt quớt và phi logic 😀 Được cái phim có nhiều diễn viên trẻ đẹp trai xinh gái. Nếu chê phim nữa thì chắc viết mấy trang không hết nên thay lời muốn nói là nếu bạn yêu điện ảnh Việt, nếu bạn mê các ca sĩ Yanbi, Justa Tee hay thích ngắm hotgirl Midu, Andrea như tui thì bạn cũng có thể tìm 1 ngày siêu giảm giá ở rạp rẻ nhất rồi đi xem 😐
Từ 1901 đến nay, cứ đến mùa thu là các giải thưởng Nobel được công bố. Đúng theo chúc thư của nhà phát minh Thụy Điển Alfred Nobel (1833-1896) thì có tất cả 5 giải thưởng cho các thành tựu trong vật lý, hóa học, y khoa hay sinh lý học, văn chương và hòa bình thế giới. Từ 1969 trở đi, Sveriges Riksban (Ngân hàng Đế chế Thụy Điển) còn góp quỹ thêm cho một giải thưởng Nobel về kinh tế học nữa. Nhưng từ trước đến nay không hề có một giải thưởng Nobel cho toán học!
Tại sao không có giải Nobel toán học?
Carl Friedrich Gauß (1777-1855)
Nikolai Nicolaievich Zinin (1812-1880).
Chuyện này đúng là không ít người đã thắc mắc. Mà cũng phải, chẳng phải danh ngôn Hy Lạp cổ đại đã bảo “Thượng đế làm toán” sao? Carl Friedrich Gauß cũng nói “Toán học là nữ hoàng của các môn khoa học”. Thôi thì cứ cho là Gauß có hơi …thiên vị đi, nhưng chắc chắn không ai thực sự quan niệm là toán học không phải là một ngành khoa học quan trọng đâu. Có thể là không ai hết …ngoài Alfred Nobel ra! Ngày nay nhiều người nghiên cứu tiểu sử Nobel cho đây chính là nguyên nhân tại sao ông ta không đoái hoài tới toán học trong chúc thư của mình. Ngay cả hội đồng giải thưởng Nobel từ lâu cũng coi đó là lý do chính thức giải thích chuyện này. Xét về thân thế Alfred Nobel thì cũng có thể dễ dàng chấp nhận chuyện này: Nobel tuy là một nhà sáng chế tài ba, nhất là về hóa học (ông có hơn 350 bằng sáng chế) nhưng chỉ đi học đến năm 16 tuổi và những năm cuối chỉ học tư ở nhà, chủ yếu là với nhà hóa học Nga Nikolai Zinin, người mà chắc đã dẫn ông vào ngành này. Nobel không theo học đại học ở đâu cả mà chỉ làm việc và nghiên cứu trong cơ xưởng và phòng thí nghiệm. Thời đó (nửa sau thế kỷ 19) người ta khám phá về hóa học rất nhiều, nhưng phần lớn đều dựa vào thực nghiệm mà chưa cần gì đến cơ sở khoa học. Xem lại các sáng chế của Nobel, người ta thấy ông rất am tường các loại nguyên liệu, hóa chất và nhất là có trực giác nhạy bén trong lúc nghiên cứu, nhưng về toán học thì chỉ áp dụng nhiều lắm là phép tam suất thôi. Có thể mà vì vậy ông đã không cảm thấy cần thiết có một giải thưởng cho toán học chăng?
Các giai thoại ly kỳ
Dĩ nhiên bây giờ khó ai có thể nói chắc được. Cho nên song song vẫn còn lưu truyền nhiều giai thoại ly kỳ giải thích chuyện này. Và các giai thoại này đều liên quan đến Gösta Mittag-Leffler (1846-1927), nhà toán học Thụy Điển nổi tiếng đồng thời với Nobel. Đầu tiên phải kể giai thoại mà nhà toán học Thụy Điển Torsten Carleman (1892-1949) đã nhắc đến khi phát biểu tưởng niệm Mittag-Leffler trong đám tang ông này: lúc sinh thời Alfred Nobel có bàn chuyện các giải thưởng với một nhà toán học quen biết đại khái như sau:
– “Nếu tôi lập một giải thưởng cho toán học thì liệu Mittag-Leffler có được chọn lãnh giải không?”
– “Tôi nghĩ rằng có thể lắm.”
– “Vậy thì thôi, tôi sẽ không lập giải này đâu!”
Chuyện này tuy có ghi lại trong tiểu sử Carleman nhưng chắc chỉ do Carleman đặt ra để tôn vinh đồng nghiệp mình thôi. Vì tuy Mittag-Leffler có là một trong những nhà toán học lớn của Thụy Điển nhưng đương thời không sao sánh được Henri Poincaré (1854-1912) hay David Hilbert chẳng hạn. Mà chính Mittag-Leffler lúc còn sống cũng đã vận động tích cực cho Poincaré được Nobel vật lý (nhưng không thành công, ông ta còn vận động cho Marie Curie và Albert Einstein nữa, kết quả ra sao chúng ta đã biết). Và trong một giai thoại khác Mittag-Leffler cũng được nhắc đến là người đã quyến rũ người vợ trẻ của Alfred Nobel cho nên ông này vì hận mà cố tình loại bỏ toán học trong các giải thưởng của mình lập ra. Thật ra thì Alfred Nobel suốt đời sống độc thân. Theo tiểu sử của Nobel (Ragnar Sohlman, The Legacy of Alfred Nobel, London, 1983 chẳng hạn) thì quả là ông có một người bạn gái người Áo trẻ (nhỏ hơn ông đến 30 tuổi!) là Sophie Hess ở Wien. Cô này tuy được Nobel chu cấp (và sau này được để lại một phần gia tài) nhưng người ta không nghĩ cô là người yêu của Nobel, và lại càng không có gì chứng minh là Mittag-Leffler (hay một nhà toán học nào cùng thời) là tình địch cả.
Giai thoại được biết đến nhiều nhất thì có liên quan đến thêm một nhà toán học khác nữa. Đó là cô Sofja Kowalewska, nữ toán gia người Nga mà sau này nhờ Mittag-Leffler vận động đã trở thành nữ giáo sư toán đầu tiên ở Trung và Bắc Âu. Theo đó thì Nobel rất ái mộ Kowalewska nhưng – cũng vì Mittag-Leffler! – mà không lọt vào mắt xanh của cô. Từ đó mà ông đâm hận tất cả các nhà toán học và dĩ nhiên không khi nào chịu lập một giải thưởng cho khoa này. Theo nghiên cứu mới nhất về Mittag-Leffler (của Arild Stubhaug, Springer sắp xuất bản) thì quả thật cả ba có quen biết nhau, nhưng dựa theo thư từ giữa Mittag-Leffler và Nobel thì Nobel đã không sốt sắng gì mấy trong việc giúp đỡ tài chính cho Kowalewskaja, sau này còn từ chối hẳn nữa. Và cũng không có chứng cớ gì để nói rằng Mittag-Leffler có liên hệ gì khác với Kowalewskaja ngoài sự ngưỡng mộ tài năng của cô. Và Kowalewskaja cũng không phải nữ khoa học gia duy nhất được Mittag-Leffler ủng hộ: khi hội đồng Nobel định trao giải vật lý cho Pierre Curie (và Becquerel) năm 1903 thì chính Mittag-Leffler đã viết thư cho ông này, bảo phải ghi lại công lao của bà Marie Curie để ông cùng nộp lên. Trong khi đó Lars H. Hormander (một nhà toán học lớn của Thụy Điển, được huy chương Fields năm 1962 cùng John Milnor) thì cho rằng Mittag-Leffler và Nobel không thật sự quen biết nhau gì hết (Mathematical Intelligercer 7(3) 1985).
Giải thưởng Nobel và toán học
Cho dù vì sao đi nữa thì không có giải Nobel toán học vẫn là một thiệt thòi lớn cho toán học. Một giải thưởng như vậy không chỉ đem lại số tiền thưởng to tát có thể giúp đỡ nhiều cho các nhà toán học tài năng rảnh rang nghiên cứu mà còn đem lại cơ hội phổ biến toán học trong quần chúng nữa. Thực vậy, nhờ giải thưởng này mà báo chí, truyền thanh, truyền hình ít nhất cũng gây cho mọi người có dịp ít nhiều quan tâm đến khoa học, và nhất là toán học xưa nay vẫn không được ưa chuộng cho lắm nữa. Bạn nào có đọc qua quyển sách nhỏ của G.H. Hardy (A Mathematician’s Apology – Lời xin lỗi của một nhà toán học, 1940) thì sẽ cảm thấy sự cay đắng của những người sống và làm việc với toán học. Những cái đẹp, những cái hay – đó là chưa nói đến những đóng góp cho các ngành khoa học hay kỹ thuật khác – người ngoài ít ai biết đến hay hiểu được, cho nên hầu như chẳng ai màng tới. Ngược lại, tự bảo mình là dốt toán lại có thể gây thiện cảm với người khác nữa!
John Pople
Walter Kohn
John Nash
Robert J. Aumann và Thomas C. Schelling
Nhưng không có giải Nobel cho toán học hoàn toàn không có nghĩa là các nhà toán học không được giải Nobel! Năm 1998 giải Nobel hóa học trao cho John Pople (cùng với Walter Kohn) vốn là một nhà toán học nhưng nghiên cứu về hóa học lượng tử (bằng phương pháp toán học). Trước đó 1994 John Nash (mấy năm trước được Hollywood quay phim “A beautiful mind” với Russel Crowe đóng vai ông) cũng nhận giải Nobel kinh tế học do những thành tựu về lý thuyết trò chơi. Và mới tháng trước đây Robert J. Aumann, một nhà toán học gốc Do thái cũng nhận giải Nobel kinh tế học (cùng Thomas C. Schelling) về công trình nghiên cứu về sự xung đột và hợp tác (cũng nằm trong lý thuyết toán học về trò chơi). Đây là chỉ vài thí dụ minh họa thôi, chắc chưa đầy đủ lắm đâu.
Các giải thưởng khác về toán học
Còn trong toán học thì chắc các bạn đã nghe qua huy chương Fields mà người ta thường coi như giải Nobel cho toán học, đề xướng bởi nhà toán học Canada John C. Fields, tiếc rằng ông mất trước khi hai huy chương Fields đầu tiên được trao. Sinh thời là bạn thân của Mittag-Leffler, ông cũng vận động và gây quỹ rất nhiều cho toán học, noi theo gương Mittag-Leffler (năm 1895 đã trao hết gia sản cho một hiệp hội thành lập viện toán Mittag-Leffler) ông cũng cố công xây dựng Royal Canadian Institute thành một trung tâm nghiên cứu khoa học. Quỹ Fields không nhiều (khi mất Fields chỉ để lại 47 ngàn đô la Canada để góp vô) nên ban đầu chỉ có 2 huy chương, trao 4 năm một lần vào dịp Đại hội toán học quốc tế cho các nhà toán học dưới 40 tuổi. Từ 1969 người ta thêm vào hai huy chương nữa, cho nên từ đó có thể có đến 4 người được trao huy chương này. Và cũng như có khi giải Nobel vẫn trao cho một nhà toán học, năm 1990 huy chương Fields đã được trao cho , một nhà vật lý mà công trình nghiên cứu về thuyết siêu sợi (superstring theory) đã có nhiều đóng góp lớn cho toán học.
Huy chương Fields khác với giải Nobel ở chỗ hạn chế tuổi, phần lớn do muốn khuyến khích các luồng nghiên cứu mới và các nhà toán học trẻ.
Edward Witten (sinh năm 1951)
Ricardo Wolf (1887-1981)
Niels Henrik Abel (1802-1829)
Huy chương Fields khác với giải Nobel ở chỗ hạn chế tuổi, phần lớn do muốn khuyến khích các luồng nghiên cứu mới và các nhà toán học trẻ. Từ năm 1978, Wolf Foundation (khởi xướng bởi Ricardo Wolf (1887-1981), một người Đức gốc Do thái đã tặng góp 10 triệu đô la Mỹ) lập ra giải thưởng Wolf về toán học (Wolf Foundation Prize in Mathematics) để tuyên dương thành quả cả cuộc đời nghiên cứu của các nhà toán học tên tuổi. Mới đây nhất còn có giải thưởng Abel, một giải thưởng lớn đặc biệt dành cho toán học mà chính phủ Na Uy lập ra để bù đắp sự thiếu sót của giải Nobel. Niels Henrik Abel (1802-1829) là một thiên tài toán học người Na Uy, không may mất rất sớm. Thật ra là từ 1902, để kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Abel, một nhà toán học lớn khác của Na Uy là Sophus Lie đã đề nghị lập ra giải thưởng này. Nhưng vì tình hình chính trị (thời đó Na Uy vẫn thuộc Thụy Điển) và tài chính, phải 100 năm sau nữa chuyện này mới thành hiện thực. Giải này với số tiền thưởng gần 1 triệu Mỹ kim, đến nay đã trao cho Jean-Pierre Serre năm 2003 (về các công trình nghiên cứu có tính cách định hướng cho hình học đại số, hình học topo và lý thuyết số), Sir Michael Atiyah và Isadore M. Singer năm 2004 (công trình tiêu biểu là định lý về chỉ số Atiyah-Singer, kết hợp hình học topo đại số, hình học vi phân và giải tích học, và dựng cơ sở cho nhiều lý thuyết vật lý hiện đại), và Peter D. Lax năm 2005 (lý thuyết và ứng dụng phương trình vi phân).
Sophus Lie
Jean-Pierre Serre
Michael Atiyah
Peter D. Lax
Ngoài ra còn các giải thưởng toán học quan trọng nữa là giải Rolf Nevanlinnadành cho toán học ứng dụng (lập ra từ 1982, cũng như huy chương Fields, được trao 4 năm một lần vào dịp Hội nghị toán học quốc tế)
Giải thưởng của học viện Clay (Clay Research Award, trao hàng năm cho các khám phá toán học có tính cách đột phá, năm 2004 về tay nhà toán học trẻ tuổi Việt Nam là Ngô Bảo Châu và thày của anh là Gérard Laumon) và giải Carl Friedrich Gauß dành cho các ứng dụng của toán học trong những khoa học khác (sẽ trao lần đầu tiên trong năm mới này).
Đó là những giải thưởng định kỳ, ngoài ra còn phải kể đến các giải thưởng cho các bài toán thiên niên kỷ (Millennium Prize Problems cũng do học viện Clay đề xướng) như giả thuyết Riemann về các nghiệm của hàm số zeta, phỏng định Hodge,… (tất cả 7 bài toán, lời giải cho mỗi bài được treo giá khá tương xứng là 1 triệu Mỹ kim). Cạnh đó còn phải kể bài toán về phỏng định Goldbach (mọi số tự nhiên chẵn lớn hơn 2 đều là tổng của 2 số nguyên tố, đưa ra từ 1742) cũng được treo giải thưởng là 1 triệu Mỹ kim (do nhà xuất bản Faber&Faber bên Anh đề xuất, tiếc rằng thời hạn tháng 4 năm 2002 đã qua mất mà vẫn chưa ai giải được! Không chừng lại có người sắp treo giải mới).
Bản gốc tiếng Anh có 6 phần nhưng ở VN mình mới dịch được 3 phần: Nhà giả kim, Pháp Sư và Nữ Pháp sư
2 chị em sinh đôi nhà Newman: Sophie và Josh “tình cờ” dính vào 1 vụ đánh nhau của những “người bất tử” để giành giật một cuốn sách mang tên Codex. Phía tấn công, tiến sĩ John Dee chiếm được cuốn sách nhưng bị Josh xé mất 2 trang quan trọng nhất. Thiếu 2 trang đó thì Dee sẽ không thể đưa các chủ nhân của mình, những Elder đen tối quay về thống trị trái đất được Ngay sau đó Josh và Sophie được biết người sở hữu cuốn sách bị mất là Nicolas Flamel một nhà giả kim vĩ đại trong lịch sử và ông mới có 7-8 trăm tuổi thui Flamel bắt đầu hành trình đưa 2 chị em trốn chạy khỏi sự truy đuổi của Dee (để lấy 2 trang sách kia). Trong lúc trốn chạy thì Sophie và Josh bàng hòang khi từng bước phát hiện ra nhiều điều bí mật mà xưa nay k ai biết: về những ngời bất tử, các phép thuật, những giống loài kinh dị tưởng như chỉ có trong truyền thuyết … Và trên mọi sự ngạc nhiên, họ đc Flamel cho biết rằng, cuốn Codex đã viết về 2 người sinh đôi sẽ có thể cứu hoặc hủy diệt thế giới và đó chính là họ. Flamel đưa Sophie và Josh đi gặp nhiều nhân vật khác để giúp đánh thức năng lượng tiềm ẩn trong người họ cũng như học các loại pháp thuật…
trong truyện chúng ta sẽ dần dần được gặp những nhân vật nổi tiếng lịch sử như Jean de Arc nay còn sống và đã lấy Saint Germain Hay chúng ta gặp một học trò của Flamel là William … Shakespeare tất cả đều còn sống và tham gia vào cuộc chiến này …
Một cuốn sách khá thú vị, đặc biệt với những ai thich1 pháp thuật hay có kiến thức cơ bản về các nhân vật lịch sử phương Tây (k có cũng chả seo :p)
Năm 1291, khi thành Arce bị thất thủ và bốc cháy trong cuộc tấn công dữ dội của quân Thổ Nhĩ Kỳ, một toán Hiệp sĩ Đền Thánh đã lên con thuyền Falcon Temple mang theo những bí mật quý giá nhất. Kể từ đó, con thuyền biến mất không ai nghe noí gì về nó nữa …
Cho đến một ngày ở thế kỷ 21, tại bảo tàng Metropole New York đang diễn ra cuộc triển lãm chưa từng có về các báu vật của Vatican thì bốn kỵ sĩ ăn mặc như những Hiệp sĩ Đền Thánh xông vào giữa buổi khai mạc và giết người, cướp đi nhiều tài sản giá trị. Tuy nhiên trong bọn cuớp có 1 kẻ lạ lùng nhất, hắn không cuớp vàng vòng mà chỉ lấy duy nhất chiếc máy kỳ lạ bí ẩn ở triển lãm … Và người duy nhất chứng kiến cảnh tượng đó là 1 chuyên gia khảo cổ ở bảo tàng: Tess Chaykin. Sau khi Google cô phát hiện ra đó là 1 loại máy giải mã mà quân đội Mỹ chỉ mới phát minh ra vào những năm 1940 nhưng cái máy trưng bày của Vatican thì đc cho là từ thế kỷ thứ 13
Phát hiện ra điều đó, Tess báo đặc vụ FBI Sean Reilly để điều tra thêm và từ từ họ vén dần 1 bức màn chứa đựng 1 bí mật khủng khiếp có thể thay đổi cả thế giới nếu được chứng minh là sự thật ….
Một chiều nọ, bác sĩ David Beck (hok có hâm ) cùng vợ đến mảnh đất hoang vắng của gia đình ở trong rừng để cắm trại. Đột nhiên khi đang tắm ở hồ thì a bị kẻ lạ tấn công bằng gậy và đánh vỡ sọ rồi vứt xuống hồ ” . Điều kỳ diệu là Beck không chết và điều kinh hoàng là 3 ngày sau, khi anh tỉnh lại thì biết vợ mình Elizabeth đã chết dưới tay 1 kẻ sát nhân hàng loạt có bí danh KillerRoy.
8 năm sau đúng vào dịp kỷ niệm ngày đau buồn đó, đột nhiên Beck nhận được 1 email kỳ lạ không rõ nguồn gốc với 1 đường link và yêu cầu chỉ mở link đó vào “Giờ hôn” (một thời điểm mà cả 2 đã gọi thế khi lần đầu họ hun nhau năm 12 tủi ) . Cũng trong ngày hôm đó, đột nhiên Beck nhận được điện thoại của cảnh sát trưởng yêu cầu a trả lời 1 số câu hỏi liên quan đến vụ án năm xưa và cho anh biết ở khu đất hoang đó người ta mới phát hiện 2 xác chết từ nhiều năm trước với 1 cây gậy bóng chày có dấu máu được nghi là máu của Beck
Đến “Giờ hôn”, Beck mở link và nhận đc những hình ảnh ghi lại từ 1 camera an ninh, trong đó đột ngột xuất hiện 1 người y như Elizabeth nhìn về phía anh Tuy nhiên, email tưởng như bí mật kia gửi đến Beck hóa ra cũng có nhiều người biết: những kẻ đã lắp đặt hệ thống nghe trộm đt, phần mềm theo dõi vào máy tính ở nhà và bệnh viện của Beck. Và kể từ đó Beck không có đc 1 ngày yên ổn khi FBI trong lúc điều tra 2 xác chết kia đã hướng suy luận theo ý BEck thuê 2 ng giết vợ và giết cả 2 kẻ đó
Liệu Beck có thật sự là thủ phạm vụ án? Phải chăng hồn ma Elizabeth đã trở về để bắt anh ta đền tội? Hoặc nếu k phải thì liệu BEck có chứng minh đc sự trong sạch của mình và tìm ra người phụ nữ trong camera không? Mời các bạn tìm truyện mè đọc
Ngoài lề: truyện này có thể nói là hay cực kỳ, chỉ 1 điều vô cùng đáng tiếc là bản dịch quá sức tởm lợm , thật không hiểu nổi 1 công ty sách như Nhã Nam mà có thể để lọt bản dịch kinh hoàng như vậy ra ngoài, giảm đi rất nhiều sự cuốn hút của truyện Xin ví dụ 1 trích đoạn đối thoại của Linda chị/em của Beck và Shauna, cô gái là “chồng” của Linda và là bạn thân của Beck:
“Linda này, em có biết là tớ yêu em đến thế nào không?”
“Em biết và cậu sẽ không bỏ em và Mark mà đi 1 lần nữa chứ”
(note : Linda và Shauna có 1 đứa con chung là Mark nhờ thụ tinh nhân tạo gì đấy)
Chỉ 1 câu nói đơn giản từ Nicolas Creel, tỷ phú giàu thứ 14 thế giới với 21tỷ USD trong tài khoản và là Tổng giám đốc công ty vũ khí quốc phòng Ares, với Dick Pender giám đốc 1 công ty PM (perception manage – Điều chỉnh nhận thức) và thế là thế giới chuẩn bị có một đại thế chiến thứ 3.
Một ngày nọ trên mạng xuất hiện 1 video clip từ 1 người Nga ngố có tên là Konstantin với nội dung đại khái như sau: “Khi bạn xem clip là a ta đã chết roài, a ta chết vì biết 1 số bí mật về việc chính phủ Nga đang có âm mưu thống trị thế giới với vũ khí hạt nhân của mình …. blah blah” Và trong khi cả thế giới đang nháo nhác vì video đó thì lại xuất hiện trên mạng hồ sơ, hình ảnh của hàng chục ngàn người Nga bị thảm sát :unsure: . Chính phủ Nga 1 mặt thì phủ nhận mọi thông tin trên, 1 mặt lại hăm dọa cả thế giới theo kiểu “thằng nào k tin là tao vô tội thì tao đánh chết cha thằng đó 😆 ” .
Shaw, một người đàn ông không có họ, không có nguồn gốc, không gia đình đang thực hiện nhiều nhiệm vụ bí mật kiểu MI cho một tổ chức an ninh bí mật :p Trong 1 lần làm nhiệm vụ ở Berlin anh quen với Anna, một cô gái rất giỏi. Và tình yêu của Shaw với Anna khiến a quyết định rời bỏ tổ chức của mình để nghỉ hưu. Thế nhưng các sếp trong tổ chức kia hoàn toàn không muốn mất đi nhân viên xuất sắc nhất của mình nên đã dùng nhiều thủ đoạn để giữ Shaw lại….
Katie James, một nữ phóng viên từng đoạt 2 giải Pulitzer nhưng nay đã hết thời do chứng nghiện rượu tình cờ gặp Shaw và Anna khi họ ở Ireland….
Là một nhà nghiên cứu về các vấn đề vĩ mô trên thế giới. Anna chợt nhận thấy trong vụ việc Konstantin kể trên có nhiều điều còn mơ hồ chưa rõ ràng và cô quyết định bắt tay vào tìm hiểu sâu thêm về vấn đề này…
Và rồi chiến tranh thế giới thứ 3 chuẩn bị nổ ra khi trên ở London người ta phát hiện ra 1 vụ thảm sát do người Nga thực hiện sau khi Nga phát hiện ra ở London có 1 cty đứng đằng sau vụ dựng chuyện về Konstantin để lừa Nga vào thế chống cả thế giới :blink: Tất cả nhân viên của cty này đều bị “đồ sát”.
Giữa 1 mớ bòng bong trên, đâu là sự thật. Một bài toán lớn mà người đọc thì nhìn thấy sự thật từ đầu roài đó, nhưng con đường truy tìm sự thật của các nhân vật chính mới thật là chông gai. Một cuốn truyện đáng xem 😎
Về mặt dịch thuật: Truyện này bản dịch khá ư là ổn, trừ 1 vài chỗ mà nếu ng đọc tinh ý sẽ thấy ng dịch bị sai như là khi nói về các Sơ ở nhà dòng thì tiếng Anh ghi Sister, tiếng Việt dịch thẳng là Chị 😀 Hay là khi nói về belt là nói về dây lưng quần thì dịch nhầm là đai an toàn của ô tô. Nhưng thực ra các điểm đó k quan trọng vì k ảnh hưởng lắm đến truyện 🙂 Một loại lỗi quá nhỏ 😀
Khi đi biển có những mối hiểm họa gây chết người. Điều quan trọng đầu tiên là chúng ta nên tắm biền ở những bãi tắm có lực lượng cứu hộ chuyên nghiệp và tắm trong những khu vực được báo hiệu an toàn. Ngoài ra, trước khi cho con mình xuống biển, chúng ta cẩn quan sát bãi biển để tìm dòng chảy xa bờ
(rip current) cũng như ước lượng độ dốc và độ sâu của bãi biển.
Dòng chảy xa bờ
Dòng chảy xa bờ – “rip current”. Đây là một dòng nước mạnh chảy từ bờ hướng ra biển. Sóng biển luôn đánh và đưa nước vào bờ, nhưng khi nước biển được đưa vào bờ thì chúng tập hợp lại thành một dòng đi ngược ra biển. Dòng nước biển đi từ bờ ra biển này được gọi là rip (hay rip current).
Hình ảnh trên cho thấy một dòng chảy xa bờ. Trong thí nghiệm này, người ta rắc chất màu sát bờ biển và thấy chất màu bị kéo ra xa bờ, chứng tỏ nơi đó dòng nước đi ngược từ bờ ra biển. Chúng ta cũng thấy nơi dòng nước đi từ bờ ra biển là vùng nước lặng, hầu như không có sóng. Dòng nước ngược này có thể ổn định không thay đổi trong suốt cả tháng hoặc cả năm, tuy nhiên chúng cũng có thể liên tục thay đổi mỗi vài giờ. Ở một số bãi biển, dòng nước ngược này không đi hướng ta biển mà chạy dọc theo bờ biển.
Vì sao cần phải nhận biết dòng chảy xa bờ trước khi xuống biển?
Dòng chảy xa bờ là được xem là một trong những nguy hiểm hàng đầu trên bờ biển. Nó cũng là nguyên nhân của hầu hết các trường hợp cứu nạn và chết đuối khi tắm biển. Dòng chảy xa bờ được ví như một dòng sông nhỏ sẽ cuốn tất cả những gì rơi vào nó xa khỏi bờ và đưa thẳng ra biển.
Vận tốc trung bình dòng chảy có thể thay đổi từ 0,5 m/giây đến 1m/giây, khi đó không ai có khả năng bơi ngược nó để vào bờ. Có khi do những thay đổi đột ngột của sóng biển, vận tốc dòng chảy xa bờ có thể lên đến 2,5 m/giây, nhanh hơn cả vận tốc bơi của một vận động viên bơi lội Olympic! Dòng chảy xa bờ thường hẹp, có chiều ngang khoảng từ 1-3 mét. Tuy nhiên, có khi dòng chảy xa bờ rộng đến cả chục mét.
Dòng chảy xa bờ có thể cực kỳ nguy hiểm vì nó kéo người biết bơi ra xa bờ làm cho người biết bơi kiệt sức hoảng loạn rồi chết đuối do kiệt sức khi cố bơi ngược dòng chảy xa bờ. Đối với người không biết bơi, dòng chảy xa bờ có thể kéo người đó ra chỗ sâu hơn dù người đó đang đứng ở mực nước ngang hông. Khi đó người không biết bơi sẽ hoảng loạn và có thể chết đuối.
Mặt nước nơi có dòng chảy xa bờ thường lặng, ít sóng nên thường làm cho người ta hiểu lầm đó là nơi an toàn. Người ta sẽ di chuyển sang tắm nơi đó thay vì tắm nơi có biển báo an toàn. Khi người tắm biển bơi vào dòng chảy xa bờ đó, ngay lập tức họ sẽ có thể bị cuốn trôi ra biển. Do đó, khi tắm biển, chúng ta cần nhớ rằng vùng nước lặng không có nghĩa là vùng nước an toàn.
Trong hình trên đây, nơi có sóng bạc đầu là nơi dòng nước đi từ biển vào gần bờ. Nếu chúng ta tắm biển nơi có sóng bạc đầu (breaking waves) thì sẽ được sóng đánh đưa vào bờ. Tuy nhiên nếu chúng ta di chuyển vào tắm chỗ lặng sóng (giữa hai mũi tên) là rơi vào dòng chảy xa bờ. Dòng sông nhỏ này sẽ lập tức kéo phăng chúng ta ra xa khỏi bờ và đưa thẳng ra biển. Như vậy, vùng có sóng không phải là vùng nguy hiểm mà vùng lặng sóng mới chính là vùng nguy hiểm.
Một ví dụ khác như hình trên đây. Vùng không có sóng bạc đầu chính là dòng chảy xa bờ. Vùng này rất nguy hiểm dù chúng lặng sóng. Khi chúng ta đi vào vùng này, chúng ta có thể bị bị dòng chảy xa bờ cuốn trôi ra biển.
Làm thế nào để nhận ra dòng chảy xa bờ?
Trước khi xuống biển, bạn nên dành khoảng 5-10 phút để nhận dạng dòng chảy xa bờ trên bờ biển mà bạn sắp xuống tắm.
Bạn có thể nhận ra dòng chảy xa bờ nhờ những đặc điểm sau đây:
Dòng chảy xa bờ có màu sậm hơn vì nơi đó nước sâu hơn;
Dòng chảy xa bờ có mặt nước lặng hơn, thường có sóng nhỏ hơn;
Đôi khi chúng ta có thể thấy các mảnh vỡ hay bọt nước nổi trên mặt dòng chảy xa bờ và trôi ra biển.
Cách thoát ra khỏi dòng chảy xa bờ
Các khảo sát cho thấy dòng chảy xa bờ không kéo người ta xuống nước. Dòng chảy xa bờ chỉ kéo người bơi ra xa bờ và thường sẽ đưa người bơi vào vùng có sóng bạc đầu (breaking waves) và sóng sẽ đưa người đó lại vào bờ. Tuy nhiên người ta thường chết đuối khi rơi vào dòng chảy xa bờ vì bản năng tự nhiên khiến người biết bơi bơi ngược dòng chảy xa bờ để vào bờ khiến người đó mau chóng kiệt sức rồi chết đuối. Bên cạnh đó, sự hoảng loạn khiến người bơi không còn khả năng phán đoán chính xác.
Dòng chảy xa bờ có thể gây nguy hiểm bất cứ lúc nào, không phải chỉ khi có sóng lớn. Khi sóng to thì vận tốc dòng chảy xa bờ cũng nhanh hơn gây nguy hiểm hơn cho người bơi. Tuy nhiên, khi đó thường ít có người xuống biển tắm vì e ngại sóng to. Vào những ngày sóng không lớn, trái lại, người ta thường chết đuối nhiều hơn vì có nhiều người xuống biển tắm. Khi thấy sóng không quá to người ta thường chủ quan và không quan tâm đến dòng chảy xa bờ. Điều quan trọng khi bị rơi vào dòng chảy ra bờ là tuyệt đối không được cố bơi ngược dòng chảy xa bờ để vào bờ.
Lời khuyên của chuyên gia:
khi chúng ta bị rơi vào dòng chảy xa bờ:
Bình tĩnh. Không hoảng loạn;
Không cố bơi ngược dòng chảy xa bờ;
Đối với người bơi giỏi: nếu bạn tự tin, hãy bơi song song với bờ biển, thường sẽ hướng đến chỗ vùng có sóng bạc đầu và nhờ sóng đưa bạn trở lại vào bờ;
Đối với người bơi yếu: bất cứ khi nào bạn thấy không thể chạm bờ biển hoặc thấy đuối sức, hãy giơ tay lên ra hiệu, bình tĩnh, thả nổi để giữ sức và gọi trợ giúp;
Nếu dòng chảy xa bờ yếu đi, cố gắng bơi song song với bờ biển để đến chỗ có sóng bạc đầu nhờ sóng đưa bạn vào bờ;
Một lần nữa, bất cứ khi nào bạn thấy không thể chạm bờ biển hoặc thấy đuối sức, hãy giơ tay lên ra hiệu, bình tĩnh, thả nổi để giữ sức và gọi trợ giúp.
Để giảm nguy cơ rơi vào dòng chảy xa bờ, bạn cần phải có những hiểu biết về chúng, biết cách nhận dạng và không nên bơi trong hoặc gần dòng chảy xa bờ. Bạn nên tắm biển ở những bờ biển có lực lượng cứu hộ chuyên nghiệp và bơi ở vùng an toàn (ở Úc là vùng giữa cờ đỏ và cờ vàng). Bạn cần quan sát các chỉ báo an toàn và nếu cần thì nên trao đổi với nhân viên cứu hộ để biết đặc điểm bờ biển mà bạn sắp xuống tắm. Ngoài ra bạn cũng cần biết bơi và không nên bơi một mình. Nếu bạn không chắc thì không nên xuống biển tắm.
Lời kết
Trước khi tắm biển, chúng ta cần tìm hiểu đặc điểm và độ an toàn của bãi biển mà chúng ta sắp xuống tắm. Chúng ta cần dành vài phút để nhận dạng dòng chảy xa bờ và không nên bơi gần những vùng đó. Khi chẳng may rơi vào dòng chảy xa bờ, chúng ta cần bình tĩnh tìm cách thoát ra khỏi dòng chảy đó bằng cách bơi song song với bờ biển hoặc bơi vuông góc với dòng chảy xa bờ để vào vùng có sóng bạc đầu để nhờ sóng đưa chúng ta vào bờ. Tuyệt đối không nên bơi ngược dòng chảy xa bờ và luôn nhớ là vùng bờ biển lặng sóng
không có nghĩa là nơi đó an toàn.
Chúng ta hãy cùng nhau phổ biến kiến thức về dòng chảy xa bờ này đến mọi người để cùng nhau tắm biển một cách an toàn.
Trắc nghiệm:
Các bạn hãy chỉ ra dòng chảy xa bờ thấy được trên hình sau đây
Thác Yang Bay nằm trong khu vực buôn Y Bay, xã Phước Thượng, huyện miền núi Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa. Từ Nha Trang, đi theo đường đến huyện Khánh Vĩnh, còn 4km tới thị trấn thì gặp xã Sông Cầu, theo bảng chỉ dẫn có con đường rẽ trái tiếp tục đi gần 5km nữa thì đến thác Yang Bay.
Yang Bay theo cách gọi của người dân tộc Raglai có nghĩa là “thác trời”. Để mở con đường đến thác, có đoạn phải xẻ đôi núi ra khiến quang cảnh chung quanh thêm hấp dẫn. Thác từ trên cao, chen trong cánh rừng đại ngàn tạo ra những dốc thác khác nhau, mỗi dốc thác lại có nhiều hồ lớn nhỏ, nước trong veo. Kết thúc cuộc hành trình của thác là một thác nhỏ với độ cao 10m trải dần xuống, chân thác là một hồ nước cạn, rộng mênh mông, có thể nhìn thấy lớp cát đá bên dưới.
Nhưng sự hấp dẫn của Yang Bay còn ở ý tưởng chinh phục. Nhiều người đi trước đã tạo ra con đường nhô lên cao dần, phải vượt qua những mỏm đá cheo leo để đi lên đỉnh. Những người ít thích mạo hiểm thì không vượt thác mà vượt qua “hồ của thác”. Hồ nước sạch, nước chỉ lưng chừng nửa mét. Xắn quần vượt qua là bước vào thế giới của đại ngàn bờ bên kia. Nơi đó có những cây đại thụ che rợp mát, dưới bóng cây là thảm lá rụng.
Hiện nay, một đập tràn dài 30m đã được xây xong, tạo con đường băng qua thác và tạo ra một hồ bơi khá lý tưởng với độ sâu trung bình 1,2m, đảm bảo an toàn cho những ai chưa biết bơi. Ngoài ra cánh rừng bên kia thác cũng được chăm sóc để đẹp hơn và an toàn hơn cho những chuyến dã ngoại của du khách.
Sau đó 5 năm, năm 1893, tại Hội chợ thế giới tổ chức tại Chicago, Hoa Kỳ,Thomas Edison đã giới thiệu với công chúng hai phát minh mang tính đột phá làKinetograph, một dạng máy ghi lại hình chuyển động, và Kinetoscope, một thiết bị bao gồm các cuộn phim celluloid (phát minh của William Kennedy Laurie Dickson, kỹ sư trưởng trong phòng thí nghiệm của Edison) được quay bằng một động cơ, người xem khi ghé mắt vào một kính lúp sẽ nhìn thấy các hình ảnh chuyển động nhờ sự chiếu sáng của một ngọn đèn phía sau các cuộn phim. Tuy vậy Edison có lẽ chỉ coi phát minh quan trọng này là một thiết bịgiải trí đơn giản, ông không tiếp tục phát triển nó và bỏ lỡ cơ hội lịch sử trở thành cha đẻ của ngành điện ảnh.
Năm 1895 tại Lyon, Pháp, anh em Auguste và Louis Lumière đã phát minh racinématographe (máy chiếu phim), một thiết bị ba trong một bao gồm máy quay, bộ phận in tráng và máy phóng hình. Ngày 22 tháng 3 năm 1895, tại Salon Indien (Phòng khách Ấn Độ) nằm dưới tầng hầm của quán cà phêGrand Café ởParis, hai người đã tổ chức buổi trình chiếu có bán vé đầu tiên[1]. Khán giả tham dự buổi chiếu được xem một chuỗi chừng 10 đoạn phim ngắn quay cảnh sinh hoạt thường ngày. Trong số này có bộ phim mà về sau trở nên nổi tiếng La Sortie de l’usine Lumière à Lyon (Buổi tan ca của nhà máy Lumière ở Lyon), được quay vào mùa hè năm 1895, ghi lại cảnh các công nhân rời khỏi nhà máy của nhà Lumière ở Lyon. Buổi chiếu này được coi là ngày khai sinh của điện ảnh cả với tư cách một môn nghệ thuật – nghệ thuật thứ bảy, cả với tư cách một ngành công nghiệp – công nghiệp điện ảnh. Một thời gian ngắn sau đó, các phương tiện chiếu hình chuyển động khác cũng liên tục được phát minh. Ở Mỹ, Edison cho ra đời loại máy có tên Vitascope, còn ở Berlin, Đức, anh em Max và Emil Skladanowsky giới thiệu loại máy Bioscop.
Điện ảnh nhanh chóng trở thành một thứ giải trí mới lạ và quầy chiếu phim trở thành một gian hàng không thể thiếu tại các hội chợ lớn. Tại đó người ta thường trình chiếu các đoạn phim ngắn dưới một phút, mô tả những cảnh sinh hoạt thường nhật hoặc các hoạt động thể thao. Mặc dù các bộ phim chưa hề được biên tập, chú ý tới các góc quay hay đơn giản là chưa hề có đạo diễn, những bộ phim này vẫn được ưa chuộng và tạo điều kiện để điện ảnh phát triển mạnh mẽ trong thế kỉ sau đó.
You must be logged in to post a comment.